Thuật ngữ công tác xã hội được dùng khá rộng rãi để chỉ các hoạt động (các tổ chức, đoàn thể) từ những hình thức giúp đỡ, hỗ trợ cá nhân thiếu hụt chức năng xã hội. Mặc dù vậy, nếu xét dưới góc độ khoa học thì cách áp dụng đó hoàn toàn chưa phù hợp và đúng ý nghĩa khi nhiều nhà khoa học khẳng định rằng công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn.
Mỗi người từ khi sinh ra đến lúc mất đi là một quá trình sinh–lão–bệnh–tử, trong chu trình sống của mình, cá nhân nào cũng thường bắt gặp những biến cố của bản thân, của xã hội. Trong lịch sử, bất cứ xã hội nào cũng có những mô hình hỗ trợ cá nhân có những éo le, hoàn cảnh khó khăn, như nhà chùa ở Phương Đông, nhà thờ ở Phương Tây… Các vấn đề xã hội theo đúng nghĩa của nó xuất hiện mạnh mẽ vào thời kỳ công nghiệp hoá, đô thị hoá. Con người trở thành nạn nhân của các vấn đề xã hội, có nghĩa là sự thiếu hụt chức năng của cá nhân không chỉ do yếu kém của cá nhân mà còn do tác động của quá trình biến đổi kinh tế văn hoá xã hội. Những gì xẩy ra ở Luân Đôn vào thời điểm đầu cuộc cách mạng công nghiệp đã chứng minh được bản chất của những vấn đề xã hội đó. Người dân với nhu cầu lao động để tồn tại và phát triển đã đổ về các trung tâm sản xuất, họ rời bỏ gia đình về sống tạm bợ ở những khu nhà ổ chuột. Các vấn đề xã hội diễn ra ở bình diện rộng nẩy sinh những tệ nạn xã hội. Đứng trước những vấn đề đó, ở Luân Đôn có một nhóm người tình nguyện đi cứu giúp, ban đầu là cứu giúp những người thất nghiệp nghèo đói, nhưng cứ làm như vậy thì đó cũng là hình thức giúp họ chây lười, ỷ nại. Các tình nguyện viên đã xác định được việc nâng cao khả năng tự giải quyết khó khăn, tự nâng cao năng lực xã hội của đối tượng – và điều đó đã trở thành nguyên tắc cơ bản của công tác xã hội. Các phong trào đó đã lan rộng sang Châu Âu, châu Mỹ. Các nơi liên kết với nhau, đã tạo thành tổ chức và nổi bật nhất là các hình thức tổ chức từ thiện. Năm 1901, trường công tác xã hội chính quy đào tạo về công tác xã hội được thành lập ở New York đã đánh dấu bước đầu ngành khoa học công tác xã hội.
Ngay từ khi hình thành, công tác xã hội luôn thay đổi theo sự chuyển biến của xã hội và sự phát triển của các ngành khoa học. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là tăng cường khả năng tự giúp của cá nhân, các cán sự xã hội đầu tiên đã nhận thức được việc cần nắm vững nguyên nhân tác động thay vì chỉ kêu gọi cá nhân tự thay đổi. Có nghĩa là không chỉ có các hình thức tác động đến cá nhân mà còn có những hình thức tác động đến nhóm, cộng đồng và toàn bộ xã hội. Từ đây hoạt động công tác xã hội không còn là việc làm từ thiện mà là việc làm đã có tác động đến nhiều khía cạnh khác của xã hội.
Việc đào tạo nhân viên xã hội đã phát triển từ New York đến các quốc gia Châu Âu, sang Châu Á, Châu Mỹ. Ngày nay nhân viên công tác xã hội được đào tạo theo nhiều cấp, theo nhiều hình thức khác nhau và có kiến thức liên ngành khá đa dạng với xã hội học, tâm lý học… Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhân viên xã hội chuyên nghiệp đã được tổ chức thành nghiệp đoàn quốc gia (National Association of Social Workers - NASW) và liên kết thành liên đoàn các đoàn chuyên nghiệp công tác xã hội quốc tế (Inernational Federation of Social Workers - IFSW) có trụ sở ngày nay tại Genève, Thuỵ Sỹ.
Ở Việt Nam, quá trình du nhập công tác xã hội ban đầu được biết qua những cán sự xã hội người Pháp trong tổ chức Chữ Thập đỏ và quân đội Pháp. Năm 1947, khóa học đầu tiên đào tạo cán sự xã hội được Hội Chữ thập đỏ Pháp tổ chức tại Trung tâm Thevenet và trung tâm này đã hoạt động đến 1975. Lực lượng cán sự lúc bấy giờ còn ít thường tập trung tại các cơ quan, xí nghiệp của người Pháp. Do lịch sử của đất nước ta có nhiều biến động nên sự phát triển công tác xã hội ở Miền Nam có xu hướng phát triển mạnh hơn Miền Bắc từ những năm 50 đến nay.
Thông qua quá trình phát triển ngành công tác xã hội, công tác xã hội luôn thay đổi phương pháp, cách thức tổ chức để đáp ứng với nhu cầu giúp thân chủ giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Đó chính là quá trình làm thay đổi nhận thức, chức năng của công tác xã hội.
Những hình thức hoạt động công tác xã hội trong giai đoạn hiện nay được đánh giá và tập trung theo các nội dung sau: Các chương trình duy trì thu nhập; Các dịch vụ đối với gia đình, đối với trẻ em, đối với người cao tuổi; Các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần; Công tác xã hội đối với những đối tượng sửa chữa sai lầm; Công tác xã hội với đối tượng tàn tật…
Cụ thể hơn, sự thay đổi nhận thức về công tác xã hội trong xu thế toàn cầu hoá cần được phân tích, nhận biết thông qua những vấn đề sau:
... còn tiếp ....
View more latest threads same category: